Căn bệnh ung thư có tỉ lệ sống sau 5 năm thấp nhất, có dấu hiệu này là cần chú ý

Thứ tư, 13/07/2022, 06:09 AM

Trên toàn thế giới, tỷ lệ mắc bệnh ung thư tuyến tụy đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Theo thống kê của WHO, ung thư tụy chỉ đứng thứ 14 về tỉ lệ mắc, tuy nhiên ung thư tụy lại đứng hàng thứ 7 về tỉ lệ tử vong do ung thư.

Ung thư tụy chỉ đứng thứ 14 về tỉ lệ mắc, tuy nhiên ung thư tụy lại đứng hàng thứ 7 về tỉ lệ tử vong do ung thư.

Ung thư tụy chỉ đứng thứ 14 về tỉ lệ mắc, tuy nhiên ung thư tụy lại đứng hàng thứ 7 về tỉ lệ tử vong do ung thư.

Theo báo cáo của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) năm 2018, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của bệnh nhân ung thư tuyến tụy chỉ là 8%, thấp nhất trong các loại ung thư.

Ung thư tuyến tụy cũng là loại ung thư duy nhất mà tỷ lệ mắc bệnh và tử vong gần bằng 1:1. Nhưng đáng sợ hơn nữa là trên toàn thế giới, tỷ lệ mắc bệnh ung thư tuyến tụy đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.

Nguyên nhân của ung thư tụyNguyên nhân cụ thể của ung thư tụy vẫn chưa được xác định, các nhà nghiên cứu đều cho rằng các yếu tố nguy cơ có liên quan mật thiết tới cơ chế bệnh sinh của ung thư tụy bao gồm: Yếu tố di truyền, tính chất gia đình, bệnh lý mãn tính ở tụy, yếu tố môi trường…

Các nghiên cứu cho thấy, khoảng 10-15% ung thư tụy có liên quan tới yếu tố di truyền. Sự liên quan của yếu tố di truyền với ung thư tụy có thể được phân chia bao gồm người mắc hội chứng di truyền liên quan đến tăng nguy cơ ung thư tụy. Ví dụ người mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng do di truyền (có đột biến gen) có nguy cơ bị ung thư tụy hoặc người bị ung thư đại tràng không polyp có tính chất gia đình- hội chứng Lynch II có nguy cơ bị ung thư tụy . Hoặc những người có gia đình, bố mẹ, anh chị em, con cái cùng bị ung thư tụy- Các nghiên cứu thấy rằng trong khoảng 13-19% bệnh nhân ung thư tụy có tính chất gia đình.

Một số bệnh bệnh lý mạn tính ở tụy làm tăng nguy cơ bị ung thư tụy gồm: Đái tháo đường, viêm tụy mạn, bệnh xơ nang tụy,…rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra bệnh đái tháo đường và ung thư tụy có quan hệ mật thiết với nhau, theo đó đái tháo đường vừa là yếu tố nguy cơ vừa là hậu quả của ung thư tụy.

Ngoài ra, các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư tụy trong đó kể đến hút thuốc lá, béo phì, ít hoạt động thể lực, nghiện rượu,…

Yếu tố tuổi tác có liên quan tới nguy cơ ung thư tuyến tụy. Bệnh thường xuất hiện ở độ tuổi 50 – 80. Gần 50% người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tụy ở độ tuổi 75 trở lên.

Thừa cân và béo phì: Theo nghiên cứu, những người bị thừa cân có khoảng 20% khả năng phát triển bệnh ung thư tuyến tụy.

Các triệu chứng của ung thư tuyến tụy là gì?Ở giai đoạn đầu, ung thư tuyến tụy thường không có triệu chứng. Khi ung thư tiến triển, các triệu chứng có thể thay đổi tùy thuộc vào việc khối u nằm ở đầu, thân hay đuôi tụy.

Các khối u ở đầu tụy có xu hướng gây ra nhiều triệu chứng hơn so với những vị trí ở than hoặc đuôi tụy - điều này là do các khối u ở đầu tụy có thể chèn ép vào ống mật hoặc ống tụy và gây ra các tình trạng như vàng da.

Các triệu chứng có thể gặp phải với ung thư tuyến tụy bao gồm:

Vàng da và tròng mắt (đối với khối u đầu tụy).

Đau bụng.

Giảm cân.

Phân nhiều mỡ.

Các triệu chứng của bệnh tiểu đường mới khởi phát, chẳng hạn như khát nước, đi tiểu thường xuyên và mệt mỏi.

Ở giai đoạn đầu ung thư tuyến tụy thường có một vài triệu chứng. Bạn nên gặp bác sĩ nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng nào đề cập ở trên. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là những triệu chứng này cũng có thể được thấy ở những người không bị ung thư tuyến tụy mà có thể được gây ra bởi các bệnh lý khác.

5 dấu hiệu của ung thư tuyến tụy

1. Căng cơ thắt lưng

Những cơn đau do bệnh ung thư tuyến tụy gây ra sẽ ngày càng trầm trọng hơn. Do khối u tuyến tụy phát triển, xâm lấn và chèn ép lên các dây thần kinh xung quanh, nên ngoài đau bụng, cơn đau sẽ theo dây thần kinh truyền đến não, phần giữa lưng, bả vai và thắt lưng, từ đó gây căng cơ thắt lưng.

2. Đau vùng thượng vị

Những bệnh nhân có tiền sử bị viêm tụy mãn tính có nguy cơ mắc ung thư tuyến tụy cao hơn bình thường. Đau vùng thượng vị cũng là một trong những triệu chứng phổ biến của bệnh ung thư tuyến tụy.

Hầu hết các trường hợp đều liên quan đến sự xâm lấn của các tế bào khối u đến các mô nội tạng. Người bệnh nếu không thăm khám kỹ càng thì rất dễ nhầm lẫn với bệnh dạ dày. Ngoài ra, một số bệnh nhân ung thư tuyến tụy chỉ khi bị vàng da mới phát hiện ra bệnh.

3. Chán ăn

Triệu chứng chán ăn có liên quan đến sự tắc nghẽn đầu dưới của ống mật chủ và ống tụy bởi khối u, khiến mật và dịch tụy không có khả năng đi vào tá tràng. Bệnh viêm tụy mãn tính do tắc nghẽn khiến chức năng ngoại tiết của tụy kém, gây ảnh hưởng đến cảm giác thèm ăn. Một số ít bệnh nhân còn bị nôn, khoảng 10% bệnh nhân bị táo bón nặng.

4. Giảm cân và suy kiệt

Bệnh nhân ung thư tuyến tụy có thể sút cân rõ rệt ngay từ khi bệnh mới khởi phát. Giai đoạn cuối, người bệnh vô cùng hốc hác, gầy như bộ xương, thiếu máu, suy nhược, thậm chí nằm liệt giường hoàn toàn, không thể tự chăm sóc bản thân, toàn thân suy kiệt, cực kỳ đau đớn.

5. Vàng da

Vàng da là một triệu chứng nổi bật của ung thư đầu tụy, có thể kèm theo đau bụng, nhưng cũng có thể chỉ bị vàng da mà không đau. Nguyên nhân chủ yếu là do khối u đầu tụy chèn ép hoặc xâm nhập vào ống mật chủ, cũng có thể do sưng hạch bạch huyết trong gan và ống mật chủ.

Nếu bị ung thư tuyến tụy, hy vọng chữa khỏi là bao nhiêu?

Trên lâm sàng, ung thư tuyến tụy được coi là "vua của các bệnh ung thư" vì tỷ lệ sống rất thấp, tỷ lệ sống sau 5 năm chỉ vào khoảng 5% -9%, tỷ lệ mắc bệnh và tử vong là 1: 0,89. Nguyên nhân chính khiến bệnh ung thư tuyến tụy khó chữa là do bệnh khó phát hiện sớm, việc điều trị bệnh ở giai đoạn cuối ít hiệu quả.

Tuyến tụy nằm phía sau phúc mạc, vì vị trí của nó nằm sâu trong khoang bụng nên các triệu chứng khi khởi phát thường âm ỉ, ở giai đoạn đầu rất khó phát hiện.

Ngoài ra, vì nằm sâu nên tuyến tụy không thể nhìn thấy hoặc sờ thấy, rất khó để phát hiện tổn thương. Khi đã được phát hiện và chẩn đoán, bệnh thường đã tiến triển sang giai đoạn giữa và cuối, lúc này việc phẫu thuật rất khó khăn, do các khối u thường phát triển ở những vùng có mạch máu dày đặc. Ngay cả khi phẫu thuật cắt bỏ khối u, thì khoảng một phần ba số bệnh nhân sẽ bị tái phát hoặc di căn sau vài tháng.