Vụ bé trai 5 tuổi tử vong trong nhà hoang: Nghi phạm đang học lớp 11 có thể bị xử lý như thế nào?

Thứ năm, 11/06/2020, 11:00 AM

Theo ý kiến luật sư, nghi phạm Đào Ngọc H. có thể phải đối mặt về tội Giết người với tình tiết định khung giết người dưới 16 tuổi được quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 123 BLHS.

Bé trai Hồ Văn Đ.

Bé trai Hồ Văn Đ.

Ngày 10/6, lãnh đạo CA tỉnh Nghệ An cho biết, nguyên nhân ban đầu về vụ việc cháu bé 5 tuổi chết trong rừng tại địa bàn huyện Yên Thành được xác định là do ngạt khí. "Không có tác động ngoại lực, do bị ngạt khí (bị bịt miệng), hoàn toàn không có dấu vết đâm chém", lãnh đạo CA tỉnh Nghệ An trao đổi với PV Dân trí.

Liên quan đến vấn đề này, một cán bộ xã Quỳnh Tam cũng xác nhận, khi được theo dõi quá trình khám nghiệm tử thi cháu Đ. "Thời điểm phát hiện cháu bé bị trói 2 tay, 2 chân, miệng bị quấn kín băng keo và nằm chết dưới mép suối trong rừng. Cạnh đó khoảng 30m có 1 căn nhà hoang. Gần đó có nhiều sữa, xúc xích ăn dở", cán bộ này nói.

Nghi phạm bước đầu được cơ quan điều tra phát hiện là Đào Ngọc H. thừa nhận việc bắt cóc cháu Đ. rồi giấu vào trong rừng giống như nội dung một trò chơi điện tử. H. Sau đó sẽ đóng vai đi tìm kiếm và đưa cháu về như một cách lập công cho gia đình để nhận thưởng.

Tuy nhiên, sau đó do lo sợ nên H. đã không đưa cháu bé về, dẫn đến cái chết thương tâm của cháu bé ở trong rừng.

Trao đổi với PV về góc độ pháp lý trong sự việc trên, luật sư Nguyễn Anh Thơm, Trưởng văn phòng Luật sư Nguyễn Anh (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho rằng, quyền sống là quyền cơ bản nhất của con người. Mọi hành vi tước đoạt tính mạng người khác trái pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Trẻ em là đối tượng đặc biệt được pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế về quyền trẻ em bảo hộ.

"Hành vi của nghi phạm Đào Ngọc H. là nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp. Nghi phạm nhận thức được hành vi trói chân tay, bịt miệng cháu bé có thể gây nguy hại đến tính mạng. Mặc dù nghi phạm không có mong muốn tước đoạt tính mạng cháu và coi đó là một trò chơi và để mặc cho cháu một mình trong ngôi nhà hoang vắng dẫn tới hậu quả bị tử vong thì phải đối mặt về tội Giết người với tình tiết định khung giết người dưới 16 tuổi được quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật", luật sư Thơm phân tích.

"Theo thông tin, nghi phạm khi thực hiện hành vi phạm tội đang là học sinh lớp 11 thì cần thiết phải xem xét đến độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 BLHS. Nhiều khả năng, nghi phạm đang ở lứa tuổi đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nên sẽ phải đối mặt với hình phạt cao nhất không quá 18 năm tù theo quy định tại Điều 101 BLHSVề nguyên tắc việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội", luật sư Nguyễn Anh Thơm nói thêm.

Theo luật sư Thơm, vụ án xảy ra cũng là hồi chuông cảnh báo về việc buông lỏng quản lý giáo dục các cháu học sinh đang ở lứa tuổi vị thành niên và đặc biệt là việc để các cháu nghiện chơi game trên mạng xã hội sẽ dẫn tới những hậu quả khó lường do sự biến đổi tâm sinh lý các cháu.

Điều 123. Tội giết người

1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Giết 02 người trở lên;

b) Giết người dưới 16 tuổi;

c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

n) Có tính chất côn đồ;

o) Có tổ chức;

p) Tái phạm nguy hiểm;

q) Vì động cơ đê hèn.

2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.